Tên Tiếng Việt: Hoàng dương, Cà ma.
Tên khoa học: Buxus - Họ Hoàng Dương – Buxaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Cây Hoàng dương là các cây bụi hay cây gỗ nhỏ thường xanh lớn chậm, cao khoảng 2 – 12m (ít khi tới 15m). Các lá mọc đối, hình từ tròn tới mũi mác, bóng mặt; ở phần lớn các loài lá khá nhỏ, thường dài 1,5 – 5cm và rộng 0,3 - 2,5cm, nhưng ở B. macrocarpa thì lá dài tới 11cm và rộng 5m. Hoa nhỏ màu vàng lục, đơn tính cùng gốc (cả hoa đực lẫn hoa cái trên cùng một cây). Quả là loại quả nang nhỏ dài 0,5 - 1,5cm (tới 3cm ở B. macrocarpa), chứa vài hạt nhỏ.
Chi này được chia thành ba tổ khác nhau về mặt di truyền, mỗi tổ có mặt tại các khu vực khác nhau, với các loài Á - Âu ở một tổ, các loài châu Phi (ngoại trừ các loài ở tây bắc châu lục này) và Madagasca thuộc tổ thứ hai và các loài châu Mỹ thuộc tổ thứ ba. Các loài châu Phi và châu Mỹ về mặt di truyền là gần gũi với nhau hơn các loài Á - Âu.
Hoàng dương nói chung được sử dụng làm hàng rào hay cây cảnh tạo hình. Gỗ hoàng dương rất nặng. Cây hoàng dương có giá trị trong chạm khắc gỗ và làm chữ in bằng gỗ trong in ấn. Hoa của hoàng dương rất nhỏ. Hoàng dương được trồng chủ yếu vì tán lá của chúng. Vì lá có màng da, tế bào biểu bì có lớp cutin dày nên chống chịu mạnh đối với khí độc, SO2, Cl, HS, HF, hút khí độc làm sạch không khí. Lượng hút Cl đứng hàng thứ 2 trong số 9 cây hút Cl mạnh.
Hoàng dương có nhiều biến chủng, là cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, thường xanh, cao khoảng 6m họ Hoàng dương (Buxaceae). Cành có 4 cạnh, lá có màng da hình trứng, đầu lá hơi lõm vào hoặc tù đầu, mặt lá màu xanh thẫm, mặt lưng nhạt hẳn. Mùa xuân nở hoa vàng, nhỏ, mọc thành chùm ở nách lá.
Hoàng dương mọc rất chậm, đến hơn 10 năm đường kính cây mới được 10cm. Cây cổ thụ ở trước cửa miếu quan Tư đồ Quang Phúc ở Tô Châu - Trung Quốc đã 700 năm, nhưng cao không quá 10m, vòng ôm chỉ 30cm.
Hoàng dương chịu cắt tỉa, thường được trồng làm hàng rào, hoặc tạo hình trong vườn. Gỗ hoàng dương mịn, chắc, thường dùng làm đồ mỹ nghệ và làm lược chải đầu.
Hoàng dương Harland (Buxus harlandii)
Hoàng dương Harland là cây nhỏ, cao 0,2 – 2m. Lá nhỏ, mọc dày, đối nhau, hầu như không cuống, phiến lá hình mác hay hình trứng, dài 2 – 4cm, rộng 5 – 10mm, gần như toàn màu lục, gân chính nổi rõ ở cả hai mặt.
Hoa nhỏ, đơn tính cùng gốc. Hoa đực có 4 lá đài và 4 nhị; hoa cái có 5 lá đài xếp thành 2 vòng và bầu 3 ô, mỗi ô chứa 1 noãn. Quả nang nhỏ, có 3 mảnh vỏ.
Hoàng dương lá nhỏ (Buxus microphylla).
Cây gỗ nhỏ hay cây bụi; nhánh vuông, không lông. Lá có phiến thon, dài 2,5 – 5 (10)cm, dày, cứng, không lông; gân bên nhiều, cách nhau 1,5 – 2.5mm; cuống ngắn.
Cụm hoa ở nách lá, có nhiều lá bắc hình trái xoan. Hoa có 4 lá đài xoan tròn, 4 nhị, bầu với 3 vòi nhụy rời. Quả nang không lông, cao 8mm; hạt đen.
Phân bố, thu hái, chế biến
Các loài hoàng dương có nguồn gốc ở miền tây và miền nam châu Âu, miền tây nam, nam và đông châu Á, châu Phi, Madagascar, khu vực phía bắc Nam Mỹ, Trung Mỹ, Mexico và Caribe, với phần lớn các loài sinh sống trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới; chỉ có các loài ở châu Âu và một số loài châu Á là chịu được lạnh. Loài Hoàng dương có nhiều loài, đa dạng, có tại Cuba (khoảng 30 loài), Trung Quốc (17 loài) và Madagascar (9 loài).
Thế giới có 5 chi, 60 loài, phân bố ở Nhiệt đới, ôn đới, trong đó có Việt Nam có 2 chi, 8 loài. Hai chi ở châu Mỹ, đôi khi tách thành 2 họ riêng, các chi khác Sarcococca ở Đông Nam Á, có lá mọc cách và Buxus ở ôn đới Bắc bán cầu, phổ biến ở Việt Nam, Nam Phi và châu Phi nhiệt đới, Tây Ấn có lá mọc đối.
Chi Buxus ở Việt Nam có 6 loài như hoàng dương Nam Bộ (B. cochinchinensis Pierre ex Gagn.) có ở Nha Trang, Phan Rang; hoàng dương vòi to (B. latistyla Gagn.) và hoàng dương lá lông (B. pubifolia Merr.) có ở Quảng Trị. Lưu ý cần sử dụng thận trọng vì chúng đều có chất độc.
Nguồn : internet / Tổng hợp : KTS.Phạm Duy
Comments