Tên tiếng anh/Tên khoa học: Pomelo
Danh pháp 2 phần: Citrus maxima
Bưởi là một loại quả thuộc chi Cam chanh, thường có màu xanh lục nhạt cho tới vàng khi chín, có múi dày, tép xốp, có vị ngọt hoặc chua ngọt tùy loại. Bưởi có nhiều kích thước tùy giống, chẳng hạn bưởi Đoan Hùng chỉ có đường kính độ 15 cm, trong khi bưởi Năm Roi, bưởi Tân Triều (Biên Hòa), bưởi da xanh (Bến Tre) và nhiều loại bưởi khác thường gặp ở Việt Nam, Thái Lan có đường kính khoảng 18 - 20 cm.
Mô tả sơ bộ về cây bưởi (Pomelo)
- Thân cây bưởi (Pomelo): Cây to cao 5-10m, chồi non có lông mềm, cành có gai nhỏ dài đến 7cm.
- Lá bưởi: Lá rộng hình trái xoan, tròn ở gốc, mép nguyên, có khớp trên cuống lá; cuống lá có cánh rộng.
- Hoa bưởi: Cụm hoa chùm ở nách lá, gồm 7-10 hoa to, màu trắng, rất thơm.
- Quả bưởi: Quả to, hình cầu và cầu phẳng, đường kính 15-30cm, màu vàng hay hồng tuỳ thứ.
Cây ra hoa, kết quả hầu như quanh năm, chủ yếu mùa hoa từ tháng 3 đến tháng 5 và mùa quả từ tháng 8 đến tháng 11.
Một số giống bưởi ở Việt Nam
Có nhiều giống trồng có quả chua, ngọt khác nhau. Thường nói đến nhiều là Bưởi Đoan Hùng (Vĩnh Phú) quả tròn, ngọt, nhiều nước; Bưởi Vinh, quả to có núm, ngọt, ít nước, trồng nhiều ở Hương Sơn (Hà Tĩnh); Bưởi Phúc Trạch quả to, ngọt, nhiều nước, trồng nhiều ở Hương Khê (Hà Tĩnh); Bưởi Thanh Trà (Huế) quả nhỏ nhiều nước, ngọt và thơm; loại Thanh Trà hồng ngon nhất; Bưởi Biên Hoà (Đồng Nai) quả to, ngọt; nhiều nước, trồng ven sông Đồng Nai; Bưởi đào, ruột và múi màu đỏ nhạt, thường rất chua; Bưởi gấc, quả đỏ, chua, trồng ở ngoại thành Nam Định (Nam Hà) dùng để bày mâm ngũ quả ngày Tết.
Nhân giống bưởi
Bưởi được trồng bằng hạt; nhưng thường người ta gieo hạt để làm gốc ghép. Các giống quý trồng bằng cành chiết hay cây ghép.
Bộ phận dùng của cây bưởi (Pomelo) và các sản phẩm từ quả bưởi
Bưởi ngoài việc dùng quả là một trái cây để ăn cực kỳ ngon và bổ dưỡng thì các thành phần của cây bưởi (Pomelo) người ta còn sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau:
+ Vỏ quả, lá và dịch quả cũng được sử dụng. Người ta thu hái những quả chín vào mùa thu-đông, đem phơi trong râm rồi gác bếp; khi dùng rửa qua cho sạch, gọt lấy lớp vỏ the ở ngoài. Lá thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi trong râm.
+ Các sản phẩm mỹ phẩm: Sữa tắm hoa bưởi, kem dưỡng da, nước hoa bưởi...
+ Thực phẩm và đồ uống: Nước ép bưởi, rượu bưởi, trà bưởi, mứt bưởi, chè bưởi, chế biến món ăn khác từ bưởi...
+ Các sản phẩm khác: Nhang bưởi…
+ Bưởi còn được dùng để trang trí trong nhà và vào những dịp tết và bày trên mâm ngũ quả: Bưởi cảnh, bưởi bonsai, bưởi hồ lô, bưởi có in bản đồ Việt Nam...
Giá trị dinh dưỡng trong quả bưởi
Vỏ quả ngoài rất giàu chất narin-gosid, do đó có vị đắng, trong vỏ có tinh dầu, tỷ lệ 0,80-0,84%; quả chứa 0,5% tinh dầu; trong lá cũng có tinh dầu. Tinh dầu vỏ bưởi chứa d-limonen, a- pinen, linalol, geraniol, citral; còn có các alcol, pectin, acid citric. Dịch quả chín có nhiều chất bổ dưỡng: nước 89%, glucid 9%, protid 0,6%, lipid 0,1% và các khoáng Ca 20mg%, P 20mg%, K 190mg%, Mg 12mg%, S 7mg% và Na, Cl, Fe, Cu, Mn... Có các vitamin (tính theo mg%) C 40, B 0,07, B2 0,05 PP 0,3 và tiền sinh tố A 0,1. 100 mg dịch quả cung cấp cho cơ thể 43 calo.
Tác dụng của bưởi trong y học
Trong cuốn Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã viết về Bưởi; Vỏ quả Bưởi gọi là Cam phao, vị đắng cay, tính không độc, thông lợi, trừ đờm táo thấp, hoà huyết, giảm đau; trị tràng phong, tiêu phù thũng. Bỏ cùi trắng, lấy lớp vỏ vàng sau dùng. Ngày nay, ta dùng vỏ quả, xem như có vị cay, đắng, tính ấm, có tác dụng trừ phong, hoá đàm, tiêu báng (lách to), tán khí thũng (phù thũng thuộc khí). Ở Trung Quốc, người ta cho là nó làm để tiêu, giúp sự tiêu hoá, làm long đờm, chống ho. Lá có vị đắng, the, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng tán hàn, tán khí, thông kinh lạc, giải cảm, trừ đờm, tiêu thực, hoạt huyết, tiêu sưng, tiêu viêm. Cụ Tuệ Tĩnh đã cho biết quả bưởi vị chua, tính lạnh, hay làm cho thư thái, trị được chứng có thai nôn nghén, nhác ăn, đau bụng, hay người bị tích trệ ăn không tiêu. Nay ta dùng dịch quả có tính chất khai vị và bổ, lợi tiêu hoá, khử lọc, dẫn lưu mật và thận, chống xuất huyết, làm mát.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Vỏ quả dùng trị đờm kết đọng ở cổ họng và cuống phổi, đau bụng do lách to; còn dùng trị đau dạ dày, đầy bụng, ăn uống không tiêu, ho nhiều, hen, đau thoát vị. Lá dùng chữa sốt, ho, Nhức đầu, hắt hơi, kém ăn; còn dùng chữa viêm vú, viêm amygdal. Ở Ấn Độ, người ta dùng chữa bệnh động kinh, múa giật và ho có co giật. Dịch quả dùng trong trường hợp chán ăn, mệt mỏi khó tiêu, ngộ độc, da huyết, tạng khớp, ít nước tiểu, suy mật, giòn mao mạch, chứng sốt và bệnh phổi. Vỏ hạt có pectin dùng làm thuốc cầm máu. Hoa bưởi được dùng để cất tinh dầu thơm, dùng trong công nghiệp sản xuất bánh kẹo.
Cách dùng bưởi để trị bệnh
Vỏ quả và lá được dùng uống trong dưới dạng thuốc sắc, mỗi ngày dùng 10-15g. Dịch quả dùng uống trong, ngày uống 3 lần trước các bữa ăn. Lá dùng ngoài không kể liều lượng. Người ta dùng nướng chín để nắn, xoa bóp hay nấu nước xông và ngâm để chữa sưng chân do hàn thấp, chướng khí, giảm đau do trúng phong tê bại. Lá non dùng chữa sưng trên khớp, bong gân, gãy xương do ngã, chấn thương; còn dùng chữa đau bụng, đầy bụng do lạnh. Hạt bưởi bỏ vỏ ngoài, nướng chín đen rồi nghiền thành bột dùng bôi chốc lở da đầu, ngày 2 lần, trong 2-3 ngày.
Các lưu ý khi dùng bưởi
- Bưởi có tính lạnh, khiến cho người bị tiêu chảy ăn vào sẽ càng nghiêm trọng. Do vậy, nếu trong người yếu thì không nên ăn nhiều bưởi.
- Bệnh nhân có lượng mỡ trong máu cao nếu dùng một cốc nước ép bưởi để uống một viên thuốc giảm béo thì có thể dẫn đến hiện tượng đau cơ, thậm chí là dẫn đến bệnh về thận.
- Một số bệnh nhân trong thời kỳ sử dụng thuốc chống dị ứng nhất định, nếu ăn bưởi hoặc là uống nước ép bưởi, nhẹ thì có thể gây ra đau đầu, tim đập mạnh, loạn nhịp tim…, nghiêm trọng có thể dẫn đến đột tử
- Ngoài ra, còn một số thành phần khi kết hợp với bưởi có thể gây ra tác dụng phụ như: Dung dịch Cyclosporine, chất caffeine, canxi đối kháng, Cisapride...
Do vậy, các chuyên gia sức khỏe khuyên rằng, bệnh nhân đang sử dụng thuốc, đặc biệt là người già, tốt nhất là không nên ăn bưởi và uống nước ép từ bưởi.
Do đó, khi sử dụng một vài loại thuốc nào đó thì nên hỏi ý bác sĩ xem có thể dùng bưởi được không. Người bị tiêu chảy càng không nên ăn nhiều bưởi vì ăn vào bệnh sẽ càng nghiêm trọng.
Kỹ thuật chăm sóc cây bưởi
Tưới nước: Mùa khô cần thường xuyên tưới nước và phủ gốc giữ ẩm cho cây. Mùa mưa nếu mưa liên tục cần đánh rãnh thoát nước, tránh để cây bị ngập úng. Cây có múi có thể cần khoảng 64 lít – 135 lít nước trong một ngày tùy theo mùa và giai đoạn sinh trưởng (Theo nghiên cứu của đại học Arizona (Mỹ)).
Làm cỏ: Để hạn chế cỏ dại, khi cây chưa giao tán giữa hàng nên trồng xen các loại cây họ đậu đỗ. Vừa có tác dụng giữ ẩm, tăng đạm hữu cơ, vừa cải thiện thêm kinh tế. Ở gốc, nên phủ rơm rạ, cỏ khô hạn chế cỏ dại.
Cắt tỉa cành, tạo tán: Sau khi cây hồi hãm ngọn ở chiều cao 50 – 70cm, các chồi mọc ra giữ lại 3 – 5 chồi khỏe mạnh, phân bổ đều quanh gốc. Tiếp tục hãm các chồi này để cây sinh cành thứ cấp. Ở giai đoạn cây lớn, nên cắt bỏ các cành già cỗi, tỉa các chồi vượt từ gốc, tạo dáng phân bổ đều về các hướng.
Chắn gió: Nên trồng cây keo đậu, keo tai tượng, cây muồng vàng làm cây chắn gió, trồng cách hàng cây trồng ít nhất 5m để hạn chế cạnh tranh dinh dưỡng. Trồng cây chắn gió vuông góc với hướng gió chính trong năm.
Kỹ thuật bón phân cho cây bưởi
Năm đầu tiên: Lượng phân trong hố còn dồi dào, chỉ cần tiến hành bón thúc bằng phân urê, pha loãng vào nước để tưới. Tỷ lệ 1%, tưới liên tục trong năm đầu. Mỗi lần cách nhau 20-30 ngày.
Năm thứ 2-3: Giai đoạn kiến thiết. Mỗi gốc bón 30 – 40kg phân chuồng + 300 lân nung chảy, bón 30% lượng phân cá (đạm cá, đậu tương) và kali (chuối ủ), trichoderma.
+ Đợt 1: Cuối mùa mưa bón 100% lượng phân hữu cơ.
+ Đợt 2: Tháng 1-3 dương lịch bón 30% lượng phân cá (đạm cá, đậu tương) và kali (chuối ủ), trichoderma.
+ Đợt 3: Tháng 5-6 dương lịch bón tiếp tục bón 30% lượng phân cá (đạm cá, đậu tương) và kali (chuối ủ), trichoderma.
+ Đợt 4: Tháng 7-8 dương lịch bón 30% còn lại.
Tưới nấm rễ cộng sinh, axit humic, trichoderma 1 năm từ 2 đến 3 lần.
Năm thứ 3 trở đi: Giai đoạn kinh doanh, cây cần nhiều dinh dưỡng hơn. Tăng lượng phân lên 50kg phân chuồng + 500g lân bón, 50% lượng phân cá (đạm cá, đậu tương) và kali (chuối ủ), tricodema.
Ngoài ra cũng cần phun bón 50% lượng phân cá (đạm cá,đậu tương) và kali (chuối ủ).
Tưới nấm rễ cộng sinh, axit humic, trichodema 1 năm từ 2 đến 3 lần.
Phòng trừ xử lý sâu bệnh cho cây bưởi
Bà con cần tiến hành phòng trừ và xử lý các loại sâu bệnh như sau:
Sâu vẽ bùa: xuất hiện từ tháng 4 – tháng 10 sử dụng thuốc phun chế phẩm sinh học bacillus định kỳ 1 tháng 3 lần. Nếu nặng tăng liều lượng.
Sâu nhớt: xuất hiện từ tháng 2 – 4 bạn nên Phun bacillus thuringensis.
Nhện đỏ: xuất hiện vào mùa Đông và Xuân nên Phun chế phẩm Nấm xanh nấm trắng.
Nhện trắng: phòng bằng cách vệ sinh vườn mùa Đông, phun Nấm xanh nấm trắng
Sâu đục cành: xuất hiện từ tháng 5 – 6 phòng trừ bằng cách diệt sâu trưởng thành: Dùng vợt bắt, dùng bacillus thuringensis phun tưới dùng bơm vào lỗ sâu đục.
Sâu đục thân (tháng 5 – 6): bắt sâu trưởng thành. Dùng móc thép giết sâu non hoặc tiêm bacillus thuringensis vào các lỗ có phân mới đùn ra; Sau mùa thu hoạch quả, quét vôi gốc cây; nơi bị nặng cần quét lưu huỳnh – vôi.
Sâu đục gốc (tháng 5 – 6): bắt sâu trưởng thành vào buổi trưa; tiêm bacillus thuringensis tưới đẫm vào các lỗ có phân mới đùn ra; Sau mùa thu hoạch quả, quét vôi với gốc cây; nơi bị nặng cần quét lưu huỳnh vôi; nhét vào lỗ sâu và bịt kín miệng.
Ruồi vàng (tháng 5 -11): Giăng lưới phủ, bao quả.
Sâu hại hoa: phun chế phẩm bacillus thuringensis trước khi bung hoa.
Các loại rệp: Ngắt các cành có rệp, phun Nấm xanh nấm trắng.
Rầy xám (rầy chổng cánh): Phun Nấm xanh nấm trắng.
Bệnh greening: Trồng cây sạch bệnh; giảm số lượng côn trùng môi giới trong tự nhiên.
Bệnh loét do vi khuẩn: Vệ sinh vườn, cắt bỏ cánh, phun Nano đồng + Vắc Xin.
Bệnh sẹo: Phun Nano đồng và Vắc Xin vào đầu mùa hè.
Bệnh muội đen: Diệt trừ các loại rệp, rầy hại cam; phun Nấm xanh nấm trắng hoặc chế phẩm Bacillus thuringensis.
Bảo quản và thu hoạch cây bưởi
Trái của cây có múi cũng cần phải bao sớm. Khi trái to bằng quả trứng vịt (đường kính 2,2-2,5cm) dùng túi nilon có đường kính 20-40cm, dài 30 – 60cm, thủng hai đầu để bao quả có trọng lượng khi chín 0,7 – 4kg.
Dùng túi nylon bao chùm trái từ phần cuống theo hướng thẳng xuống, dùng dây buộc giữ túi vừa chặt. Túi nylon cắt bỏ hoàn toàn phần đáy. Vừa giữ được sự thông thoáng, vừa ngăn các loại côn trùng, sâu và ruồi đục trái tấn công.
Khi trái được bao bằng túi nilon màu trắng trong, chất diệp lục ở vỏ trái vẫn hấp thu được ánh sáng và quang hợp bình thường như những quả để tự nhiên. Do vậy màu sắc của quả không thay đổi từ khi nhỏ tới chín, đảm bảo màu sắc hấp dẫn tự nhiên.
Đa số các loại côn trùng trưởng thành là bướm (ngài) đều bay theo phương ngang thẳng. Khi đậu vào trái được bao bởi giấy nilon để tiến hành đẻ trứng gặp bề mặt giấy nilon trơn, nhẵn nên bướm và trứng không bám được, do vậy hầu hết các loại sâu như: Bọ xít, xén tóc, bọ cánh cứng, ruồi đục quả, bọ rầy…được loại trừ khả năng gây hại.
Trái trong túi nilon phát triển bình thường ít bị sâu, bệnh phá hại có màu sắc đẹp, hấp dẫn, năng suất, chất lượng quả được cải thiện rõ rệt.
Thu hoạch: Nên thu hoạch khi trái vừa chín tới, da căng láng, cắt luôn cả cuống trái. Không hái trái khi chưa chín tới hoặc hái quá trễ, chất lượng không tốt.
Nguồn : internet / Tổng hợp : KTS.Phạm Duy
Commentaires